>>Làm việc hằng tuần
Rất may cho sự phát triển kinh tế của Singapore là từ rất sớm, Chính phủ Singapore đã có nhận thức và đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để đặt ra chính sách cơ bản về ngôn ngữ: mọi học trò phải ưu tiên học tiếng Anh, và tiếng dân tộc của ba dân tộc chính đặt ở vị trí lùi lại. Chuyển đổi chính sách Tôi vẫn còn nhớ ở cấp I, tôi vẫn học hai môn địa lý và lịch sử bằng tiếng Hoa, nhưng khi lên cấp II tôi phải học quờ các môn bằng tiếng Anh, trừ chính môn tiếng Hoa. Học trò cấp I sau tôi đều phải chuyển sang hệ tiếng Anh hết. Chính sách này của Chính phủ Singapore có nguyên tố kinh tế và chính trị nội bộ. Về đối ngoại, là một nước không có tài nguyên thiên nhiên, Singapore phải dựa vào nguồn nhân lực để lôi cuốn sự quan hoài của quốc tế về kinh dinh. Từ những năm 1950, Mỹ và các nước dùng tiếng Anh đã nổi lên như một khối nhà nước phát triển, tiến bộ nhất. Những đứa ở xã hội quan chức thời thuộc địa Anh đều muốn con mình học tiếng Anh để Singapore còn đất làm ăn. Dù hồi đó còn tồn tại một lực lượng xã hội rất lớn, cụ thể là ở nhóm người Hoa, phản đối chính sách học tiếng Anh của chính phủ, vì họ sợ con mình sẽ lờ đi việc học tiếng Hoa và dần dần mất đi nền văn hóa người Hoa của gia đình. Về chính trị nội bộ, chính phủ muốn tiếng Anh trở thành đả cụ giao lưu và hiểu biết lẫn nhau, để giao tế thuận tiện hơn với các dân tộc vốn không có mấy điểm chung về văn hóa. Một điểm lý thú về chính sách văn hóa ở Singapore là tiếng Mã Lai được mệnh danh là tiếng nhà nước (tiếng Anh dùng từ national language), quốc ca cũng được sáng tác và hát bằng tiếng Mã Lai, nhưng hiến pháp quy định dân và chính phủ có thể sử dụng một trong bốn thứ tiếng hành chính (Anh, Hoa, Mã Lai, Tamil) để giao tiếp với nhau. Văn bản quan trọng và chính thức của quốc gia, cụ thể là khi cần phổ quát một chính sách nào đó cho mọi người dân, thì phải dùng cả bốn thứ tiếng. Người dân có thể sử dụng một trong bốn thứ tiếng đó khi giao thiệp chính thức và đề nghị chính phủ đáp lại cũng bằng ngôn ngữ đó. Trong Quốc hội Singapore bây giờ, đa số nghị viên phát biểu bằng tiếng Anh, nhưng đôi khi lại có nghị sĩ dân tộc Tamil (một trong các dân tộc thiểu số, gốc Ấn ở Singapore), hoặc Hoa, hoặc Mã Lai phát biểu bằng tiếng dân tộc của họ, bài phát biểu được dịch cabin sang tiếng Anh. Nghị viên có quyền làm như vậy, và có lẽ trong thời kỳ khai quốc, số nghị viên sử dụng ngôn ngữ không phải là tiếng Anh để phát biểu trong quốc hội nhiều hơn hiện giờ. Khi có tranh chấp về ý nghĩa của từ vị thì nhà nước lấy bản tiếng Anh làm chuẩn. Ngay cả lời tuyên thệ mà các học trò đọc trong lễ chào cờ quốc gia cũng được nói bằng tiếng Anh là chính. Sau nhiều năm thực hiện chính sách trọng dụng tiếng Anh, bây giờ phần lớn người dân Singapore dùng tiếng Anh, dù với đời lớn tuổi vẫn dùng thông đạt các tiếng dân tộc, phương ngôn của người Hoa... Song tổng thể việc học, việc đặt chuẩn trong khoa học, luật pháp, giao dịch đánh thương, hội nhập quốc tế... Người Singapore đều phải sử dụng tiếng Anh, bất kể tiếng Anh của họ có đạt chuẩn Nữ hoàng Anh (Queen’s English) hay không. English với Singlish Trong thời kỳ đầu phổ Diet muoi thông việc học tiếng Anh, chất lượng học của các học trò Singapore dù hơn học sinh ở các quốc gia khác trong khu vực và cũng đủ để đưa ngay một số lượng nhân công vào thị trường lao động phục vụ đầu tư nước ngoài và kinh dinh, nhưng trình độ dạy và kết quả học của người Singapore còn xa trình độ của nước Anh và Mỹ. Song đến nay đã có thể thấy người Singapore có trình độ tiếng Anh tuy vẫn chưa bằng phương Tây nhưng hơn khu vực Đông Nam Á nhiều. Đây cũng là một lý do khiến rất nhiều làm ty ngoài khu vực thích đến Singapore đầu tư và sinh sống. Nhưng khi cần tuyển dụng những người nói tiếng Anh giỏi nhất, tỉ dụ những người làm trong ngành truyền thông, rất ít người Singapore nếu chỉ học trong hệ thống trường của Singapore đạt được trình độ chuẩn mà các ngành này yêu cầu. Họ đều phải sang trọng thêm một số lớp đào tạo và đoàn luyện để đạt chuẩn. Do vậy, những người Singapore xuất hiện trên các đài truyền thông của Singapore làm đả việc phát ngôn đều nói tiếng Anh với giọng khác hẳn người Singapore thường nhật. Chính họ, trong một thời kỳ, bị người dân cho là có giọng giả tạo, không phản ánh được cuộc sống thật. May mắn là về sau đánh chúng cũng dần hiểu được rằng để quốc tế hiểu được Singapore thì những người làm truyền thông này đều cần có giọng nói tương đối chuẩn, chí ít là khi họ nói, quốc tế hiểu được. Bởi thế có hai trường phái, hai hiện tượng tiếng Anh ở Singapore: khi người Singapore cần tiếp xúc với quốc tế, họ đều ý thức được rằng họ phải nói rõ hơn, phải chú ý phát âm tiếng Anh của mình nếu không muốn quốc tế thắc mắc về nội dung trò chuyện của họ. Còn khi người Singapore nói tiếng Anh với nhau, cuộc trò chuyện đó thường pha trộn rất nhiều từ phát âm theo giọng nói của nhiều dân tộc khác nhau, thậm chí pha trộn cả những từ vựng của rất nhiều tiếng nói và tục ngữ khác. Loại thứ nhất có tên gọi đơn giản là English (chứ chưa phải là Queen’s English), loại thứ hai được gọi là Singlish (Singapore English). Kiến nghị cho Việt Nam Gốc tích văn hóa, bối cảnh lịch sử và tình hình quốc gia của Việt Nam rất khác với Singapore, nên rất khó tìm ra một “mô hình Singapore” để vận dụng, để cải cách việc dạy và học tiếng Anh hiệu quả hơn. Những câu hỏi cần đặt ra là: học sinh Việt Nam cần học tiếng Anh để làm gì? Nên học đến trình độ vừa đủ hay trình độ cao? Việc tổ chức học tiếng Anh cho tốt có phải là trách nhiệm của nhà nước? Một sợi chỉ xuyên suốt ở đây là việc cạnh tranh phát triển giữa các quốc gia trong thời kỳ này không thể thiếu kỹ năng tiếng Anh để thu nhận và trao đổi về đả nghệ, khoa học, thu hút vốn đầu tư, cập nhật thông tin hàng hóa của nước mình với thị trường toàn cầu..., Nói chung là hội nhập thế giới. Với mong ước kiểm soát được tất tật chính sách về giáo dục của quốc gia, dĩ nhiên quốc gia phải thực thi một chương trình học tiếng Anh để dân có thể học và cạnh tranh với thế giới. Nhưng chương trình này chẳng thể giống Singapore bởi Việt Nam có một nền văn hóa thuần nhất hơn và tiếng Anh (cùng nền văn hóa phương Tây kèm theo) rất khó được phép áp đặt bên trên tiếng Việt và văn hóa Việt. Mọi người cũng dễ nhìn thấy những bất cập, trong đó có sự bất lực của các cấp chính quyền trong việc xúc tiến học tiếng Anh. Đã đến lúc những câu hỏi “học tiếng Anh để làm gì, đến mức độ nào, và nên tổ chức như thế nào?” cần có câu trả lời sòng phẳng và có sự đồng thuận lớn trong tầng lớp. Bộ Giáo dục chi tiết tham khảo - đào tạo Việt Nam nên tổ chức những hội thảo hoặc trưng cầu lớn để hấp thu ý kiến của các chuyên gia và từng lớp, vạch ra những kiến nghị về một kế hoạch lâu dài. Nhìn chung, một kế hoạch như vậy cần có những nhân tố phát triển kinh tế đi kèm việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Nên cho học sinh học tiếng Anh càng sớm càng tốt, mang tính buộc, coi đó là ngôn ngữ thứ hai của nền giáo dục; cho học trò học các môn khoa học và toán bằng tiếng Anh, nhưng đấu dạy các môn lịch sử, địa lý, văn học bằng tiếng Việt. Quốc gia nên kiến lập một môi trường thuận tiện hơn, toàn diện hơn, cho học sinh xúc tiếp với tiếng Anh nhiều hơn. Cụ thể là nên chiếu nhiều phim tiếng Anh trên truyền thông cho trẻ, cho học trò có nhiều dịp để đọc sách tiếng Anh và nói tiếng Anh, nhưng luôn giúp các em có nhiều dịp học giá trị cuộc sống của Việt Nam. Cái đích là con người Việt Nam biết song ngữ, cảm thấy thoải mái trong hai môi trường, không mất gốc văn hóa bởi vì phải học tiếng Anh nhiều nhưng cũng không vì phải học làm người Việt mà không có nhịp học tiếng Anh để hội nhập với thế giới. Con người này sẽ dễ dàng, linh hoạt thay đổi ngôn ngữ, cách ứng xử văn minh và có văn hóa tương ứng tiếng nói họ đang dùng, tùy vào việc họ đang ở môi trường nào. Vấn đề tiếng Anh và tiếng Việt thành ra luôn là một tuyển lựa kép.
TS DAVID KOH |
Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014
Tiếng Anh ở Singapore
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét